Sau bao năm mong đợi, cuối cùng tôi đã được diện kiến ông - võ sư Chưởng môn Ngô Xuân Bính, khi ông vừa hoàn thành sự nghiệp phát triển, quảng bá võ thuật cổ truyền Việt Nam tại Nga và các nước vùng Baltic trở về.
Trong tâm thức của tôi, ông thật lớn lao. Bởi hồi còn là một cậu học trò nhỏ, tôi được anh trai chỉ bảo cho những đường quyền, ngọn cước đầu tiên của phái võ Nhất Nam, mà ông là người đầu tiên dày công sưu tầm, bảo tồn và phát triển.
Tuyên hiệu" cho một dòng võ cổ không tên:
Võ sư Ngô Xuân Bính xuất thân trong một gia phái võ ở thành Vinh (Nghệ An), được thân phụ và các võ sư khác vùng Thanh - Nghệ dạy võ từ tấm bé. Sau bao năm tháng miệt mài khổ luyện, ông đã kế thừa khá hoàn đủ những tri thức võ học, cùng truyền thống thượng võ của dải đất tối cổ trên đất Việt có địa thế như gốc một chiếc quạt xoè ra.
Ngày thi đậu vào trường ĐH Mỹ Thuật Hà Nội, ông đã mang theo dòng chảy âm ỉ mà mãnh liệt của di sản ấy để truyền bá, trước hết là cho các bạn học. Rồi ngày 23-10-1983, lần đầu tiên làng võ Hà Nội chứng kiến cuộc ra mắt của một phái võ nghe tên thực lạ - võ Nhất Nam. Ông chính là người "tuyên hiệu" cho dòng võ cổ không tên vùng Thanh - Nghệ, với mong muốn thống nhất, đồng nhất các chi phái, gia phái để cùng vun vén về cội nguồn, hy vọng quy tụ bầu đoàn võ của vùng sông Mã, sông Lam thành một điểm võ riêng dưới trời Nam, là "một đứa con" của làng võ cổ truyền Việt Nam.
Những nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, dân tộc học ... từ lâu đã tìm thấy ở vùng lưu vực sông Mã, sông Lam (châu Á, châu Hoan cổ) những bằng chứng về sự tồn tại của một dòng võ dân gian, hình thành và tồn tại từ hàng ngàn năm trước trong cuộc đấu tranh sinh tồn với giặc giã, muông thú của dân địa phương. Theo ông Mai Văn Muôn (nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TDTT) thì dòng võ này có nguồn gốc vào loại xa xưa nhất Việt Nam, không lẫn với bất cứ môn phái võ nào, dân gian gọi là võ "Hét" hoặc "Héc" (theo khẩu âm của người địa phương). Trong số các Tạo sĩ, Tạo toát (tiến sĩ võ) thời Lê Trung Hưng có nhiều người quê ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn, Hoằng Hoá, nhất là ở các huyện Kỳ Hoa, Tống Sơn, Thạch Hà của vùng Thanh - Nghệ, trong đó nổi bật lên là các họ Võ Tá, Nguyễn Đình, Ngô Phúc, Phạm Phúc, Văn Đình... có nhiều đời đỗ đạt cao.
Lịch sử dân tộc ta đã trải qua hàng trăm cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của phong kiến phương Bắc. Khi vũ khí chưa phát triển thì võ thuật là sức mạnh vật chất có tính khởi phát giúp tổ tiên ta đánh giặc. Nhưng thắng giặc bằng cách nào, khi mà tương quan về thể lực người phương Bắc to khoẻ hơn hẳn chúng ta? Thực tế cho thấy ta không thể đối kháng với họ theo lối đối đòn và trả miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn khắc chế được võ Tầu, người Việt cổ đã tìm ra một thế mạnh riêng, đó là tập luyện cho thân pháp cực kỳ mau lẹ, tránh né cho thật thuần thục để những đòn đánh cương mãnh của đối phương không trúng đích, rồi chọn cơ hội nhắm vào các điểm hở, điểm yếu, chỗ hiểm của địch mà ra đòn tấn công dứt điểm. Đây chính là tinh diệu của nghệ thuật quân sự Việt Nam: "Lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh". Nói như các võ sư Héc là: "học đạt cái tinh để chế cái nhiều, cái tĩnh để chế cái động, cái đột để phá cái ì, cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng.... tất cả đều phải đạt đến độ quyền biến, tức tới mức thần quyền". Do đó về kỹ thuật cần tập trung vào các thế tấn thật cơ động, có độ biến ảo cao. Để đánh điểm huyệt đối phương và chữa chạy cho mình hữu hiệu, dòng võ này nghiên cứu kỹ hệ thống các huyệt trên cơ thể người và những bài thuốc chế từ cây cỏ, muông thú sẵn có ở địa phương.
Cùng với thời gian, lớp người trước truyền lớp người sau, đã không ngừng gạn lọc, vun bồi và phát triển môn quyền ấy thành một dòng võ đặc dị, có tính quy mô và tổ chức cao, với một hệ thống môn công đồ sộ, toàn diện từ quyền cước, binh khí, ám khí đến châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh, công phu luyện nội, ngoại công... cùng lý luận về tâm pháp, yếu pháp làm nền tảng lý luận cho người luyện tập, giao đấu và đối nhân xử thế.
Về binh khí võ Nhất Nam coi đó là phương tiện "nối" cho tay thêm dài, thêm sắc, thêm cứng, thêm dẻo và ảo hoạt, nên các võ sư đã kết hợp tính đặc dị của các thế, miếng trong các bài quyền với tính năng sử dụng của từng loại binh khí mà sáng tạo ra những bài võ binh khí khác nhau với hàng trăm nghìn thế đánh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa công và thủ. Võ Nhất Nam xưa có 12 đẳng, ứng với 12 vạch, nhưng nay đã thất truyền khoảng 30 - 40 %, chỉ còn lại 9 đẳng. Lịch sử võ Nhất Nam đã trải qua bao thăng trầm, gắn với những biến động trong đời sống chính trị nước ta thời kỳ phong kiến.
Võ cổ truyền Việt Nam toả sáng ở Nga:
Trở lại với sự nghiệp phục hưng di sản của võ sư Ngô Xuân Bính, sau chưa đầy 10 năm hoạt động (từ 1983 đến 1990), Võ Nhất Nam phát triển nhanh chóng tại Hà Nội và các tỉnh Bắc bộ, thu hút đông đảo thanh thiếu niên tham gia, nhiều thế hệ học trò xuất sắc đã kế tục sứ mệnh của ông, đưa môn phái phát triển ở các địa bàn xa xôi.
Với tầm nhìn xa, thấy trước xu thế hội nhập, từ đầu những năm 1990 ông đã giao lại cho học trò duy trì môn phái ở trong nước, để bay sang châu Âu gây dựng, quảng bá di sản văn hoá này.
Nhìn ra thế giới, chúng ta thấy võ thuật là bộ phận cấu thành nên nền văn hoá của nhiều quốc gia. Các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... đều tích cực truyền bá môn võ của mình ra nước ngoài không ngoài mục đích tôn vinh văn hoá của dân tộc mình, tạo dựng sự hiểu biết, giao lưu để thúc đẩy phát triển đất nước.
Sau gần 20 năm phát triển môn phái ở nước ngoài, đến nay ông là Chủ tịch Liên đoàn võ Nhất Nam, được đăng ký hoạt động chính thức ở Nga, Bêlarút, Lítva, Ucraina... và đang trong tiến trình thành lập Liên đoàn võ thuật Nhất Nam thế giới. Tuy nhiên, người nước ngoài không chỉ biết đến ông như một võ sư, mà còn là một nhà văn hoá. Hiện ông là giảng viên triết học phương Đông tại một trường đại học ở Nga, đồng thời nổi tiếng với việc chữa bệnh bằng y võ và viết các tác phẩm về thuật châm cứu, bấm huyệt. Ngoài ra, hội hoạ vẫn là niềm đam mê lớn của ông. Từ ngày 7 đến 11-3-2008 tại Trung tâm triển lãm Manezh ở Mátxcơva (Nga) đã diễn ra Liên hoan nghệ thuật quốc tế: "Truyền thống và hiện đại" với sự tham gia của nhiều hoạ sĩ, nhà điêu khắc, nhiếp ảnh, đồ hoạ và phòng tranh của 25 nước. Với 12 tác phẩm tham gia liên hoan, ông đã được trao giải thưởng: "Lựa chọn được bút pháp xuất sắc để thể hiện cảm thụ nghệ thuật" trong thể loại tranh sơn dầu.
Tết Nguyên đán Mậu Tý vừa qua, gần hai chục cao đồ của ông từ châu Âu đã có chuyến hành hương về xứ Nghệ thăm đất tổ môn phái. Họ thành kính dâng hương tưởng niệm các bậc liệt tổ, liệt tông trong môn, dẫu có sự khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ. Chúng tôi thật sự khâm phục họ về lòng nhiệt thành, thái độ trân trọng đối với một di sản văn hoá phi vật thể của nước ta.
Anh trưởng đoàn kể với tôi bằng tiếng Việt còn ngọng, rằng chuyến đi này anh muốn tìm đến cội rễ câu nói của sư phụ Ngô Xuân Bính: "võ thuật không phải là bạo lực, mà là một con đường dẫn đến sự hoàn thiện, sự hoà hợp giữa bản thể và cộng đồng, là đạo tu thân". Còn một điều nữa cũng thật băn khoăn, chúng ta đang "rót" không ít tiền của cho những môn thể thao thành tích cao, nhưng liệu đó có phải là chất kết dính con người Việt, văn hoá Việt để làm nên một truyền thống thượng võ hào hùng như đã từng có trong lịch sử không?
Có lẽ đã thật cần một cái nhìn tỉnh táo, nhận ra chân giá trị của cái chúng ta vốn có nhưng đang dần quên lãng, để vực lên một Việt Nam đậm đà bản sắc riêng.
môn phái, mong đợi, cuối cùng, diện kiến, hoàn thành, sự nghiệp, phát triển, cổ truyền, trở về, lớn lao, học trò, sưu tầm, xuất thân, thành vinh, thân phụ, tấm bé, miệt mài, kế thừa, tri thức, truyền thống, thượng võ
Con người luôn phải đứng trước những lựa chọn và người thành công là người biết lựa chọn đúng. Với tiêu chí http://dangkyhocvo.com/ giúp bạn đạt được thành công hay thành đạt luôn đồng hành cùng thành công của bạn. Việc xây dựng http://dangkyhocvo.com/ Chúng tôi mong muốn đem...
Ý kiến bạn đọc