Đấu võ đài

Đấu võ đài
Đấu võ đài
Đấu võ đài là một hoạt động thi đấu có tổ chức, có khán giả. Ở Bình Định, đấu võ truyền thống có từ rất lâu đời, các cuộc thách đấu so tài giữa các võ sĩ có sự chứng kiến của đám đông là hiện tượng rất phổ biến, nhưng là những hình thức thi tài đọ sức trên mặt đất. Sau năm 1945, theo trào lưu thế giới, đấu võ đài mới du nhập vào nước ta và rộ lên trong vài thập kỷ tiếp theo.
Đài đấu võ ở ta là một sàn gỗ vuông mỗi cạnh sàn dài từ 4m đến 5m thiết kế theo kiểu sân khấu giản đơn nhưng chắc chắn, an toàn, không gây chấn thương cho võ sĩ. Tính từ mặt đất đến sàn chừng 1,2m - 1,5m. Góc đài khu vực bên trái đối diện Chủ tịch Hội đồng giám sát là góc đỏ, đối diện góc đỏ là góc xanh, hai góc chéo còn lại là góc trắng (trung lập). Tại các góc của sàn đài có trụ để căng 3 hoặc 4 dây dừa hoặc dây neo ghe bầu to bằng ngón chân cái, nơi nào kiếm không ra dây neo thì dùng cây tre đã róc trơn mắt để bo khung. Ngày nay khung đài được căng bằng loại dây rin chắc chắn, có độ đàn hồi nhẹ. Từ đất lên đài có 3 cầu thang. Hai cầu thang đối diện nhau dành cho vận động viên và săn sóc viên, một cầu thang ở góc trung lập dành cho trọng tài.
Theo các cụ già kể lại, từ năm 1950 đổ về trước, các võ sĩ đấu võ cổ truyền khi thượng đài vẫn đánh tay không chứ không đeo găng tay, mặc áo bảo hiểm và quanh đài không căng dây. Người nào bị đánh rơi xuống đài là thua. Phải đến cuối thập kỷ năm mươi của thế kỷ XX, áo bảo hiểm và găng tay võ sĩ mới xuất hiện trên các sàn đấu Bình Định. Màu phổ biến của áo bảo hiểm và găng tay là đỏ - xanh, hoặc đỏ - đen.
Có thể nói rằng thời kỳ đấu võ đài rộ lên đã mở ra những cơ hội thăng hoa của các tài danh võ học. Võ Bình Định vang dội với các tên tuổi Nguyễn An (Bảy Lụt), Hương kiểm Mỹ, Lê Thành Phiên, hùm xám Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Nguyễn Thái Bảng, Lâm Đình Phú, Lý Xuân Hỷ ...
Trong những năm 1973 đến 1975, do tình hình chiến sự nóng bỏng, đấu võ đài không được tổ chức. Tháng 4-1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, công cuộc xây dựng quê hương, hàn gắn vết thương chiến tranh đã cuốn hút sự quan tâm của mọi nhà, mọi người. Việc tập võ tuy vẫn được duy trì, nhưng không thành phong trào mạnh mẽ, chủ yếu là để vốn liếng võ thuật của ông cha không bị thất truyền.
Từ năm 1980 trở đi, nhiều võ sư, võ nhân mở võ đường dạy võ. Đấu võ đài được tổ chức rộng khắp: xã tổ chức đấu liên xã, huyện tổ chức đấu liên huyện, cũng có khi một huyện của Bình Định, mà điển hình là Tây Sơn, đứng ra tổ chức đấu liên tỉnh. Phong trào lên mạnh. Sở Thể dục Thể thao tổ chức các giải đấu võ đài liên tỉnh, khu vực. Bình Định đăng cai tổ chức nhiều giải thi đấu quốc gia. Tại các cuộc thi đấu này vừa có võ đối kháng, vừa có võ biểu diễn, tức là đấu võ đài và diễn võ đài.
Gần đây, cùng với chủ trương bảo tồn và chấn hưng văn hoá dân tộc, nhiều lễ hội và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian được khôi phục, trong đó có đấu võ đài. Ở Bình Định, tại một số huyện như Tây Sơn, Tuy Phước, An Nhơn thường tổ chức đấu võ đài vào độ giáp Tết hay trong tháng giêng, mà tập trung nhiều nhất vẫn là huyện Tây Sơn. Từ mồng bốn tháng giêng âm lịch, khi người bốn phương đổ về dâng hương tưởng niệm Tây Sơn tam kiệt và các vị anh hùng dân tộc thời Tây Sơn, thì tại sân vận động Phú Phong, người ta bắt đầu quây đài đấu võ. Tiếng trống từng chặp đổ hồi, khiến người ta rộn ràng nao nức. Đấu xong 3 đêm ở Phú Phong, lại quây đài ở Bình Thuận, Bình An.
Vào lúc sẫm tối, khi ánh đèn vàng trên sàn đấu sáng lên, già trẻ trai gái lục tục rủ nhau đi xem đấu võ. Trong chốc lát, trên khoảng đất rộng quanh đài người tụ tập lên tới hàng ngàn. Buổi đấu thường bắt đầu vào lúc 20 giờ. Trước đó, Ban tổ chức đã ghi danh sách võ sĩ, xếp các cặp và lên lịch thi đấu, đọc to cho khán giả theo dõi. Cũng có trường hợp một vài võ sĩ ban đầu chỉ đi xem chơi, xem một lúc nổi hứng mới xin phép thầy ghi danh đăng ký thi đấu. Những sự thay đổi như vậy được giải quyết nhanh chóng và Ban tổ chức lại thông báo qua loa phóng thanh.
Các võ sĩ tham gia đấu võ đài thường xếp cặp theo bo chạng, tức không chênh lệch nhau nhiều về tuổi tác và cân nặng. Tuy nhiên, ở những trận đấu then chốt thì không câu nệ lắm về bo chạng. Môn phổ biến trong đấu đài thường là võ tay không (quyền cước). Trước khi mỗi cặp võ sĩ lên đấu, có giới thiệu để khán giả biết tên tuổi, cân nặng, xuất thân từ lò võ nào của địa phương nào, mặc áo đeo găng màu gì.
Hai bên ra đòn, cả võ trường liền nóng lên. Nếu gặp đôi ngang sức ngang tài, những miếng hay được thi triển, tiếng cổ vũ, tiếng vỗ tay rộ lên, sau đó là những lời bình luận xuýt xoa. Tình cảm và lòng say mê nghệ thuật quyện làm một, lúc cao trào có thể khiến người ta la hét, chửi đổng. Cào cào châu chấu nấp dưới cỏ bị làm kinh động, nhảy búng tanh tách lên đầu lên vai người xem. Có người chỉ cổ vũ cho bên mạnh, cũng có người chỉ cổ vũ cho bên yếu. Lúc đó phần đông quên tên võ sĩ, trong tiếng gọi của họ chỉ còn “thằng Xanh”, “thằng Đỏ”, rất mộc mạc và sôi động.
Ngày xưa, tính sát phạt ăn thua rất quyết liệt. Đấu võ đài có người chết là chuyện đương nhiên, cho nên võ sĩ và thân nhân phải làm tờ cam đoan mới được tham gia thi đấu. Thậm chí có võ sĩ mang theo hòm (quan tài) đặt dưới sàn đấu để tỏ rõ quyết tâm chiến đấu đến cùng. Ngày nay, các trận thi đấu mang tính giao hữu. Các đòn chỏ, gối bị cấm. Trọng tài luôn xen vào kịp thời để tránh sự tàn sát đáng tiếc xảy ra. Tuy vậy, vẫn có những võ sĩ kỹ thuật cao, đánh chỏ, gối qua mắt được giám định và trọng tài, làm trọng thương hoặc hạ nốc-ao đối phương nhanh chóng.
Đấu võ thế nào cũng có bên thắng, bên thua. Nhưng sự ăn thua ở đây phơi trần trước mắt mọi người, để lại dấu tích trên tóc tai, quần áo, cơ thể. Trên sàn đấu, có võ sĩ kém thế không còn tự chủ được phải đưa mắt cầu cứu thầy học, vì một số các võ sĩ thi đấu là do thầy chọn đưa đi. Nhắc đòn là chuyện miễn cưỡng, mà cũng là một nghệ thuật, bởi lời nhắc được rất nhiều người nhận biết, kể cả đối thủ. Người được nhắc phải lanh, phải biết tiếp thu biến hóa cực kỳ mau lẹ mới có thể lật ngược tình thế, chuyển bại thành thắng. Trường hợp hai võ sĩ chỉ chênh nhau chút đỉnh về tài nghệ, thì sự thắng thua tuy có đem lại vui buồn cho từng bên, nhưng cái lớn nhất mà họ thu nhận được là những kinh nghiệm quý giá về đòn thế, về đấu pháp. Với những trường hợp bị đánh bay khỏi đài hay bị hạ nốc - ao, cảm giác nhục nhã của bên thua cuộc phải nói là cực điểm. Có võ sĩ bị thua đã lết từ sàn đấu xuống quỳ chịu tội trước mặt thầy; người thầy làm mặt lạnh, đưa mắt bảo trò ra ngoài. Cái khoảnh khắc vô ngôn ấy nặng tựa nghìn cân.